Buiquocdat Admin
Cung Hoàng Đạo : Cầm Tinh : Ngày Gia Nhập : 10/01/2010
Nghề Nghiệp/Sở Thích : Du lịch và lai rai cùng bạn bè
Tính Cách : Trung thực thẳng thắn
| Tiêu đề: TỰ SỰ của đ/c Thái Lập Hiến CTCCB xã Vọng Thê Thoại Sơn AG Mon Dec 31, 2012 9:00 am | |
| Tà Sanh ****** Kính tặng cán bộ, chiến sỹ sư đoàn 330 Anh hùng MT979, QK9 Trên chiến trường Tà Sanh – Bat – Tam – Băng Vương Trọng, Tà – Sanh tháng 7/1984
Con Voi rừng trụi lông Sốt rung rừng, lá mùa khô rơi rụng Khe lá mục cạn dòng nước uống Con nai khát ăn nhầm lá độc Chết vắt ngang thân gỗ mục chắn đường Cánh Kền Kền-từng mảng trời rơi xuống Xé tranh nhau xác chết, thét vang rừng Con Voi già trụi lông Quay đầu về Bát-đom-boong...
Tàn quân Pôn Pốt đến Tà Sanh Lẩn quất cùng vi trùng sốt rét Cùng muỗi vằn a-nô-phen Cùng lạch nước đen ngòm lá độc Lũ giết người bằng búa, bằng dao Lũ giết người bằng gặm nhấm hồng cầu Kết bạn
Tà Sanh một vùng bí hiểm Bát-đom-boong rùng mình khi nghĩ đến Chướng khí bay lên đen kịt mây trời Chết chóc theo bóng đen Pôn Pốt Bổ về từng phum, ấp Những người dân trụi trần vừa qua cơn lốc áo đen Lại lo âu, sợ hãi Khi nhìn ngược Tà Sanh Khăn Ca-ma bay theo cơn gió Lòng xuôi về đợi bộ đội Việt Nam.
Sư đoàn 330 hành quân Long-vét, Pu-sát, Bát-đom-boong Những cánh đồng bỏ hoang Đường chân trời chạy trên cỏ cháy Xe chạy Xe nhảy Qua ổ gà, ổ voi Những cái xóc nhớ đời Những cái xóc nẩy lửa Không gian cuộn trào bụi đỏ Mùa khô này áo bộ đội là xanh! Hướng Tà Sanh Mũi chủ công phải hướng tới Tà Sanh Sư trưởng giang tay trên bản đồ chiến dịch Bốn bề rừng núi im lìm Giặc không hiểu những gì sẽ đến.
Hết đường xe, đường bộ Là núi, là rừng Với đôi chân Những người lính đi vào chiến dịch Gạo sấy một tuần Nước một bi-đông Con sức lực dành cho súng đạn Dành cho dốc lên, dốc xuống Núi đồi như bát úp kề nhau
Chân dép, chân giày, chân đất Cắt núi cát rừng, luồn sâu.
Người từng leo Lũng Lô, Pha Đin Người từng đi cho Trường Sơn ngắn lại Người vừa quen nghe tiếng chân đồng đội Mới qua bài tập bắn đầu tiên Nhưng không một ai quên Truyền thống sư đoàn "Con hổ xám miền Tây" - kẻ thù từng khiếp sợ Nhắc lại trận Phú Cường Những đỉnh núi Tà Sanh không còn cao nữa.
Lá mùa khô rụng xuống khô rừng Đừng xào xạc, quân đi cần bí mật Chim cứ hót, chim đừng bay đột ngột Nốt nhạc trời ta muốn lắng nghe Những người con nhiều năm xa Tổ quốc Tiếng chim quen kỷ niệm gọi về Chân dép, chân giày, chân trần bước khẽ Môi thì thầm nhắc một miền quê.
Nhưng đây là Tà Sanh, đây là mặt trận Tiếng súng hiệp đồng đã nổ Từng đoàn quân chốt giữ điểm cao Trận đánh xảy ra lúc nào Không còn nhớ
Trận đánh kéo dài những ngày nắng lửa Những điểm cao không tên Những điểm cao xác định bằng toạ độ Những điểm cao xác định bằng máu đổ Lửa ta thiêu trụi cứ Son San Tan tành mật khu Pôn Pốt Cửa thông sang Thái Lan-bịt chặt Những trung đoàn chiến thắng gặp nhau Trận mưa đầu mùa vừa trút xuống Lính cởi trần nhảy tắm Reo vang rừng Tà Sanh... Nhưng người ơi đừng quên Những gì ta từng gánh chịu Đồng đội tôi một ngày chống chọi hai mươi mốt đợt giặc tràn lên Suốt ngày gạo sấy không kịp bốc ăn Giặc tan rồi, mới hay mình đang đói Túi gạo sấy trúng đạn nhiều lần vung vãi Tay đói run nhặt gạo lẫn đất hầm Tay lấm lem dầu súng và thuốc đạn Gạo nhặt rồi lại rơi xuống bàn chân ( ước gạo được nhiều như vỏ đạn nghiêng người sang chỉ vốc một lần) Ước tay nhanh như gà mổ thóc Những bàn tay không sinh ra để nhặt Hạt gạo ơi, hạt gạo thương cùng! Đói cồn cào cổ họng sao nghẹn tắc Không thể nuốt vào hạt gạo cỏn con Quờ tay tìm bi-đông Bi-đông thủng, nước không còn một giọt Nâng lên mặt chỉ còn nghe gió hót Gió cũng khô như đất đỉnh đồi!
Ai từng qua cơn khát khô môi Khát khô môi là bắt đầu cơn khát Bạn tôi khát đến khi không nói được Sao cây đồi chỉ mọc cỏ gianh? Nói chuyện phải đưa tay ra hiệu Hoặc viết lên nguệch ngoạc mặt hầm. Bạn tôi khát đến khi không đi được Nằm nhìn trời mà tưởng nhớ đến dòng sông Ước một cây chuối rừng Bập răng vào nhai cho thoả thích ( nhắc khế chua miệng không sinh được bọt) Mắt nhìn trời cầu mong một cơn mưa Nhưng Tà Sanh mùa khô
Mưa chỉ nằm trong chiêm bao Mưa chỉ nằm trong trang cổ tích Bạn tôi nằm héo khô trên mặt đất Đất đồi khô, khô cả giọt máu hồng Nếu không gặp những người trinh sát Hẳn bạn tôi vĩnh viễn ở rừng.
Và người ơi, cơn sốt rừng, nhớ lấy, Hai mươi tuổi bạn tôi chống gậy Chỉ còn hơn một triệu hồng cầu Bước lên thềm, tay dò, tay vịn Môi máy nhiều mà nói chẳng thành câu Đừng trách bạn tôi không ngủ màn, uống chín Sốt Tà Sanh không ai tránh nổi đâu Người Pan Lin đi dân công hỏa tuyến Vài tuần thôi về sốt trọc đầu Bác sĩ chuyên khoa vi trùng sốt rét Lên dăm ngày, cấp cứu trở về sau...
Nhưng bạn tôi ở lại chẳng đi đâu Cắt cơn sốt lại tìm rau, cõng nước Dốc đồi ơi, đừng để chân bạn trượt Chân bạn tôi tĩnh mạch nổi xanh màu Con voi trụi lông quay đầu đi hướng khác Nhưng bạn tôi ở lại chẳng đi đâu Ra viện lại xin vào giữ chốt Tự nguyện che lá chắn tuyến đầu.
Tà Sanh xa, những ai chưa lên được Xin đừng quên người lính ở rừng sâu... Đừng kỉnh cáu một kỳ lương về muộn Đừng bực tức một đêm mất điện Hay phân vân trước lạng thịt mớ rau Người Tà Sanh chẳng nhìn thấy được đâu? Xin đừng quên những người lính Sư Đoàn ở đó!
Tà Sanh, 7-1984 VƯƠNG TRỌNG Tạp chí văn nghệ quân đội
Tự sự Hơn phần tư thế kỷ, chúng tôi mới tìm lại được bài thơ này. Vì năm đó chúng tôi là những người lính tuổi đời 20 chống gậy và những cơn khát nhớ một dòng sông, thật là khát đến nhắc khế chua không sinh nước bọt, sốt thì vàng gia như nghệ, có người không hiểu Tà Sanh bảo là chúng tôi bị đau gan (thương thật). Củng năm đó 1984, suốt cả mùa mưa chốt ở đó. Trung đoàn 8 bb, sư đoàn 339 do anh Tuấn là cán bộ trung đoàn trưởng chỉ huy, thương lắm hơn 100 chiến sỹ đã hy sinh vì căn bệnh sốt rét. Chúng tôi vào thay chốt nhưng anh em chiến sỹ mới của E8 phàn nàn với chúng tôi ở tuyến sau, không biết gian khổ, vào đây rồi thì biết (1). Nhưng có ai hiểu cho chúng tôi là những người phát hiện ra vì sao dòng suối Săn - Ke lại đỏ hơn nước sông Hồng (2) Có ai hiểu cho chúng tôi là những người vào đến tạo cho kẻ thù phải khiếp vía kinh hồn, làm cho người lính Cách mạng Canpuchia F 196 rạng rở một niềm tin không còn bị lũ diệt chủng ngày đêm gây náo loạn cho họ. Nơi ấy có những trận đánh mà đã có những đại địa danh như: điểm cao 343, điểm cao và chốt của E2, E1, E3, F330 như: (412, 1271, 1181, 508, 563, 271, đòi Chu, đồi Thum, 445, Sóc San, Sâm lốt, Tức Sóc, dóc tìm lại cuộc đời và núi Ô Đa (kim cương) rất nhiều địa danh khác và những mẫu chuyện như đùa nhưng thật 100%. Nhưng củng chính nơi quỷ quái ấy đã nhường cho Phạm Hồng Lợi một bàn chân, vì mìn của nó chê chân tướng. Hết xe tải phải dùng xe trâu tải gạo, thật là xui xẻo mìn củng thích chân trâu. Nói không phải khoét, nó cài mìn nhiều quá chúng tôi phải lần theo suối, nó phát hiện, nó bắn pháo rơi tản mạn dưới suối, báo hại làm cho một bữa cá no nê. Vì lúc đó cá bị pháo bắn nên nó chết thôi vô số. Có hôm cơn sốt quá dữ dội. Tôi thèm chua cực kỳ gọi là man rợ, không cưởng lại được. Tôi phải dừng kể chuyện tiếu lâm nam bộ để cho những đứa ghiền (nghiện truyện tếu lâm 3 Phi) phải chạy tìm xoài chua về cho tôi ăn và kể tiếp. Những ngày ấy, sốt, đói, khổ nhưng thương nhau lắm, cái gì củng nhường nhau, bài ca không quên nói điếu thuốc củng chia ba. Vậy hẳn là sang lắm rồi đấy. Bọn tôi có cái từ gọi mà người ngoài cuộc không ai hiểu nổi, đó là đập dế nhủi. Vì cầm que khều lá rừng để lượm tàn thuốc, được khoảng hơn 10 mẫu tàn là được 1 điếu to đùng mà lại vấn bằng giấy báo, cả trung đội dùng 1 điếu, đứa nào tham rít phải 3 hơi coi như bị vi phạm quy ước, phạt 2 vòng mới đến lươt. Mà cha mẹ ơi, rít 1 hơi dế nhủi là thả hồn tận 9 tầng mây, còn hơn 7 ngày đêm khoái lạc, tính ra là nó ngon còn hơn 3 số 555 nữa vậy. Ban đầu Bác sĩ Thắng ngại không hút, nhưng mãi củng rít luôn. Không biết giờ này BS Thắng đang công tấc ở bệnh viện nhi đồng II TP Hồ Chí Minh, không biết BS còn nhớ những ngày ấy không nhỉ. Thương nhau, chăm sóc nhau lúc chiến đấu củng như lúc đau ốm và lá thư củng truyền tay nhau mà đoc, thư tình yêu củng không ngại, đọc để bình luận, đọc để chia sẻ, đọc để bớt khát tình iêu. Nhưng có 1 câu chuyện không biết chú đó giờ này còn nhớ hay không? Chuyện là như vầy: hôm nọ có chú Sáu quê ở Bến Tre sang thăm con là thằng Thái. Mọi người tiếp chú chân tình như người cha, người chú vậy. Vì bộ đội mà coi dân như cha với mẹ. Mọi việc đãi đằng nghi lễ của dơn vị xong, chú Sáu nhất nhất đòi xuống ngũ với lính cho vui, nghe chú nài nỉ mãi, Vân cán bộ B trưởng đồng ý và xếp chú ngũ bộ sạp tre của A3 (ở đây chúng tôi không có giường ngũ, 1 là ngũ võng, 2 là bộ sạp tre dài 6m vì ở nhà hầm nửa nổi, nửa chìm). Sau buổi họp báo của B. Nào ngờ vào lúc ca gác số 4 lúc 12 – 01 giờ sáng do chú lính mới chưa được quán triệt chỗ ngũ của chú Sáu, nó mò đến gọi, dậy đổi gác, giọng chú ngáy ngũ lè nhè….minh củng gác nữa sao. LÍnh mới hỏi. Hồi chiều có ăn cơm không?.....có. Có thì đi gác. Sáu lầm lũi chui ra khỏi mùng, đeo áo xe đạn, khoác súng bước ra bờ giao thông hào ôm súng ngồi đó. Thay gì 5 giờ báo thức để tập thể dục, nhưng chiến trường thì tự tập tại chỗ và cán bộ trực ban phải kiểm tra gác lần cuối. Ủa sao chú Sáu ngồi đây sớm vậy? Dà…. Hồi hôm có chú đó biểu tui gác, tui nói tui phải gác sao? Chú đó bảo, có ăn cơm thì phải gác chứ sao…… (bó tay luôn) Ngồi viết mấy dòng này, các bạn có biết là không tránh nổi sự bồi hồi xúc động. Vì chúng ta hưởng được thiên phúc khi trở về đời thường, chúng ta còn thụ hưởng không nhiều củng ít củng còn có mái ấm gia đình, còn có biết ăn sang, mặc đẹp, còn biết tranh đấu, bương chải trong cuộc sống. Nhưng còn những ai đó đã vĩnh viễn nằm xuống cho cuộc sống này, khi mà nhìn lên di ảnh trong bộ quân phục hãy còn trẻ quá và họ đã là những nhân vật gãy gánh tình dầu và củng cực xúc động khi về thăm lại 1 bà mẹ Hậu Giang (Cần Thơ) tuối hơn lục tuần sống đơn độc trong ngôi nhà nhỏ bên chiếc bàn có bát hương và chân dung người chiến sỹ trẻ đã sờ tay tôi lúc sắp tắt hơi thở cuối cùng như 1 lời trăn trối gì đó…. (còn tiếp, hôm nào rảnh kể nữa cho nghe)(1) ý các bạn ấy công thần, tưởng E1 (u minh) không biết đánh giặc. (2) suối săn ke củng trong veo chứ, Pôn Pốt bán núi kim cương cho Thailand khai thác kim cương nên nước đỏ là thế
*Thái Lập Hiến. Cựu Chiến Binh Thông tin Trung đoàn I, sư đoàn 330. DĐ:0915765358. E-mail: hienthaiccb@gmai.com. Kính tặng bài thơ hay của Vương Trọng đã bị thất lạc hơn 20 năm qua cho những đồng đội yêu quá khứ đã đề nghị đi tìm nguyên bản. Chân thành cảm ơn nhà thơ Vương Trọng đã gắn bó với chúng tôi, chân thành cảm ơn quý toà soạn nhiệt tình đăng tải bài viết này cho những ai trong cuộc từ phương bắc xuống chí phía nam.
[img][/img] |
|